...
Truy cập phần này

Chữa lành tinh thần

    Trong chương này


    Mặc dù hiện nay tâm thần phân liệt chưa có phương pháp chữa khỏi hoàn toàn, nhưng các phương pháp điều trị đang NGÀY CÀNG ĐƯỢC CẢI THIỆN. Đối với hầu hết bệnh nhân, điều trị thường bao gồm kết hợp thuốc và liệu pháp trò chuyện cùng với các chương trình rèn luyện kỹ năng xã hội giúp họ từng bước hòa nhập lại với cộng đồng. Trong những giai đoạn bệnh trở nặng, người bệnh có thể cần nhập viện để đảm bảo an toàn, được chăm sóc về dinh dưỡng, giấc ngủ và vệ sinh cá nhân.

    Tâm thần phân liệt là một căn bệnh cần ĐIỀU TRỊ SUỐT ĐỜI, ngay cả khi các triệu chứng đã thuyên giảm. Việc chăm sóc và điều trị thường do một nhóm chuyên môn đảm nhận, trong đó bác sĩ chuyên khoa tâm thần là người phụ trách chính. Nhóm này có thể bao gồm thêm nhà tâm lý học, điều dưỡng tâm thần, nhân viên công tác xã hội và người quản lý ca bệnh để phối hợp các khâu chăm sóc cho người bệnh. Vì đây là bệnh lý phức tạp và mỗi bệnh nhân có hoàn cảnh, phản ứng khác nhau, nên KHÔNG CÓ “MỘT PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ CHUNG CHO TẤT CẢ”. Quan trọng là cần có thời gian để tìm hiểu, thử nghiệm và xây dựng một kế hoạch điều trị phù hợp với từng cá nhân. Mục tiêu của điều trị là giảm triệu chứng, hạn chế nguy cơ tái phát và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh.


    Tầm quan trọng của lối sống lành mạnh


    Có nhiều lý do khiến lối sống lành mạnh đặc biệt quan trọng đối với người mắc bệnh tâm thần phân liệt. Tuy nhiên, việc duy trì một cuộc sống năng động và lành mạnh không hề dễ dàng với họ, do các triệu chứng như mất động lực, hoặc tác dụng phụ của thuốc điều trị. Bên cạnh đó, họ cũng có nguy cơ cao mắc các vấn đề sức khỏe thể chất nghiêm trọng như bệnh tim, đột quỵ, ung thư và tiểu đường. Thực tế, hơn 75% người mắc tâm thần phân liệt còn đồng thời sống chung với một bệnh lý mạn tính khác. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như thói quen sinh hoạt không lành mạnh (hút thuốc, ăn uống kém lành mạnh) hoặc tác dụng phụ của thuốc nhiều loại chống loạn thần.

    Hút thuốc lá là một trong những vấn đề lớn, ảnh hưởng tới khoảng 60% người mắc tâm thần phân liệt, so với chỉ 25% ở người không mắc bệnh. Nhiều người hút thuốc như một cách để “tự điều trị”, nhưng không có bằng chứng khoa học nào cho thấy hút thuốc giúp cải thiện triệu chứng. Ngược lại, có rất nhiều bằng chứng về tác hại của việc hút thuốc đối với sức khỏe nói chung. Vì vậy, việc bỏ thuốc lá là rất cần thiết đối với người mắc tâm thần phân liệt.
    Một vấn đề lớn khác là tăng cân. Điều này có thể đến từ lối sống ít vận động, do không có việc làm hoặc sống khép kín, ít hoạt động thể chất. Ngoài ra, tăng cân cũng là tác dụng phụ phổ biến của thuốc chống loạn thần.


    Điều trị bằng thuốc


    Dù có nhiều phương pháp hỗ trợ khác nhau, thuốc vẫn là yếu tố cốt lõi trong điều trị tâm thần phân liệt. Không có phác đồ điều trị hiệu quả nào mà không sử dụng thuốc. Loại thuốc được dùng phổ biến nhất trong điều trị là THUỐC CHỐNG LOẠN THẦN.

    Các loại thuốc điều trị


    Như đã đề cập trong chương đầu của tài liệu này, chất dẫn truyền thần kinh dopamine đóng vai trò thiết yếu trong tâm thần phân liệt. Trên người bệnh tâm thần phân liệt được cho là, LƯỢNG DOPAMINE QUÁ THẤP ở vùng não chịu trách nhiệm về sự chú ý và xử lý thông tin, và QUÁ CAO ở vùng chịu trách nhiệm về trí tưởng tượng và cảm xúc. Thuốc chống loạn thần hoạt động bằng cách KIỂM SOÁT lượng dopamine và các chất dẫn truyền thông tin khác trong não. Những thuốc này làm giảm các triệu chứng loạn thần, cho phép người bạn chăm sóc có thể hoạt động và thích nghi tốt hơn. Thuốc chống loạn thần có thể được phân loại thành hai nhóm:

    THUỐC CHỐNG LOẠN THẦN ĐIỂN HÌNH (còn gọi là thuốc thế hệ một) Chúng được giới thiệu vào những năm 1950 và giúp nhiều người mắc bệnh tâm thần phân liệt có thể rời khỏi bệnh viện và trở về với gia đình và xã hội. Tuy nhiên, mặc dù các thuốc thế hệ một này có thể kiểm soát các triệu chứng loạn thần, chúng cũng gây ra các tác dụng phụ khó chịu làm giảm sự tuân thủ điều trị. Điều này thúc đẩy sự phát triển của các thuốc mới hơn, với nguy cơ tác dụng phụ thấp hơn.

    THUỐC CHỐNG LOẠN THẦN KHÔNG ĐIỂN HÌNH (còn gọi là thuốc thế hệ thứ hai)
    Được giới thiệu lần đầu tiên vào những năm 1990, chúng có cơ chế hoạt động khác với thuốc thế hệ đầu tiên, được dung nạp tốt hơn và có khả năng mang lại kết quả lâu dài tốt hơn. Thuốc chống loạn thần không điển hình có hiệu quả hơn trong việc ngăn ngừa tái phát, cũng như trong việc điều trị các triệu chứng âm tính và nhận thức của bệnh tâm thần phân liệt. Một số thuốc chống loạn thần không điển hình mới hơn được phát hiện trong vài năm gần đây đã cho thấy kết quả rất hứa hẹn liên quan đến việc điều trị các triệu chứng âm tính.

    Cả hai nhóm đều bao gồm nhiều loại thuốc khác nhau với các hiệu lực khác nhau, nghĩa là một loại thuốc có hiệu lực thấp sẽ cần liều cao hơn để đạt được hiệu quả tương tự như một loại thuốc có hiệu lực cao với liều thấp hơn. Thuốc chống loạn thần có sẵn ở cả dạng UỐNG và TIÊM. Thông thường nhất, điều trị lâu dài đạt được bằng thuốc uống, uống 1–3 LẦN một ngày. Một số thuốc chống loạn thần có thể được sử dụng dưới dạng TIÊM TÁC DỤNG NHANH, đặc biệt hữu ích trong các trường hợp khẩn cấp. Ngoài ra còn có thuốc chống loạn thần tiêm TÁC DỤNG KÉO DÀI (còn gọi là depot) cung cấp một giải pháp thay thế hiệu quả cho những người gặp khó khăn khi uống thuốc thường xuyên. Những mũi tiêm này có thể được thực hiện MỖI VÀI TUẦN, giúp giảm triệu chứng lâu dài, nhất quán hơn, và cũng hiệu quả trong việc kiểm soát các triệu chứng như thuốc uống.

    Khi bệnh nhân có CƠN LOẠN THẦN CẤP, việc điều trị bằng thuốc cần được bắt đầu NGAY LẬP TỨC. Thông thường, thuốc chống loạn thần được tiêm, nhằm kiểm soát các triệu chứng một cách nhanh chóng, an toàn và hiệu quả. Mục tiêu của phương pháp điều trị này là cố gắng đưa bệnh nhân trở lại hoạt động bình thường càng sớm càng tốt. Điều này bao gồm việc làm dịu bệnh nhân kích động, hung hăng hoặc gây rối, giảm thiểu nguy hiểm cho bản thân và người khác, và đạt được sự chuyển đổi suôn sẻ từ tiêm sang điều trị bằng đường uống dài hạn. Sau CƠN LOẠN THẦN ĐẦU TIÊN, thuốc chống loạn thần được dùng như LIỆU PHÁP DUY TRÌ trong ít nhất 12–18 THÁNG để ngăn ngừa tái phát. Đối với những người bị TÂM THẦN PHÂN LIỆT TRONG GIAI ĐOẠN THUYÊN GIẢM, LIỆU PHÁP DUY TRÌ được dùng trong ít nhất HAI NĂM.

    Trong BỆNH TÂM THẦN PHÂN LIỆT MẠN TÍNH, khi có lo âu, trầm cảm, và thuốc chống loạn thần đơn trị không thể làm giảm đầy đủ các triệu chứng, đôi khi chúng được kết hợp với các loại thuốc khác như THUỐC CHỐNG LO ÂU, THUỐC CHỐNG TRẦM CẢM và THUỐC ỔN ĐỊNH TÂM TRẠNG. Trong trường hợp lo âu và mất ngủ, các loại thuốc thường được sử dụng nhất là các BENZODIAZEPINE, nhưng thường được khuyến cáo dùng trong thời gian ngắn. Trong một số trường hợp, các loại thuốc chống loạn thần khác nhau (ví dụ như viên nén và thuốc tiêm depot) có thể được kết hợp để kiểm soát các triệu chứng. Một số tác dụng phụ của thuốc chống loạn thần cũng được kiểm soát bằng cách sử dụng các loại thuốc khác (xem bên dưới). Khi lựa chọn một loại thuốc cụ thể, bác sĩ tâm thần điều trị cho người bạn chăm sóc phải cân nhắc rất nhiều yếu tố.

    Những yếu tố này bao gồm các triệu chứng của người bệnh, phản ứng với thuốc trước đó và sự tuân thủ điều trị; mô hình và mức độ nghiêm trọng của bệnh; tương tác thuốc, phản ứng bất lợi, liều lượng và các bệnh lý kèm theo nếu có. Điều quan trọng cần nhớ là mỗi cá nhân có phản ứng khác nhau với các loại thuốc được dùng để điều trị bệnh tâm thần phân liệt và thời gian cần thiết để kiểm soát các triệu chứng khác nhau có thể kéo dài. Trong khi cảm giác lo lắng hoặc hung hăng có thể được kiểm soát trong vài giờ, thì các triệu chứng khác, chẳng hạn như ảo giác và hoang tưởng, có thể mất vài tuần để cải thiện. Khoảng 10–30% trường hợp, các triệu chứng ít được cải thiện ngay cả sau khi thử hai hoặc nhiều loại thuốc chống loạn thần khác nhau. Những người này được gọi là mắc TÂM THẦN PHÂN LIỆT KHÁNG TRỊ. Bác sĩ điều trị cho người thân của bạn có thể thử nghiệm các loại thuốc riêng biệt và liều lượng khác nhau theo thời gian để đạt được kết quả mong muốn. Mục đích là phát triển một phương pháp cá thể hóa điều trị giúp kiểm soát các triệu chứng.

    Tác dụng phụ của thuốc chống loạn thần


    Cả thuốc chống loạn thần điển hình (thế hệ thứ nhất) và không điển hình (thế hệ thứ hai) đều có thể gây ra tác dụng phụ. Tuy nhiên, không phải ai cũng gặp phải tác dụng phụ, và mức độ nặng cũng có thể khác nhau giữa các bệnh nhân.

    Một số thuốc chống loạn thần có tác dụng an dịu, LÀM CHẬM HOẠT ĐỘNG CỦA NÃO. Tác dụng này phổ biến hơn ở các thuốc thế hệ thứ nhất và đôi khi có thể bị nhầm lẫn với triệu chứng âm tính như thiếu ý chí, thu mình hoặc thiếu động lực. Tình trạng an dịu có thể gây khó khăn cho bệnh nhân tâm thần phân liệt trong việc tái hòa nhập xã hội và tuân thủ điều trị. Nhiều bệnh nhân mô tả cảm giác như bị MẮC KẸT TRONG MỘT CHIẾC HỘP KÍNH, không thể thực sự tham gia vào cuộc sống. Bác sĩ có thể điều chỉnh để giảm tác dụng an dịu của thuốc chống loạn thần bằng cách giảm liều thuốc, chuyển sang liều 1 lần vào buổi tối, đổi sang một loại thuốc ít gây an dịu hơn.

    Một tác dụng phụ khá phổ biến của thuốc chống loạn thần là hội chứng nằm ngồi không yên (akathisia), được đặc trưng bởi cảm giác BỒN CHỒN đi kèm với MONG MUỐN VẬN ĐỘNG KHÔNG THỂ KIỂM SOÁT. Trong các trường hợp nặng, người bệnh cảm thấy không thể cưỡng lại việc di chuyển liên tục, và cảm thấy căng thẳng tăng dần khi buộc phải đứng yên. Akathisia gây ra căng thẳng cực độ, thậm chí dẫn đến ý nghĩ tự tử. Hội chứng này chủ yếu do các thuốc chống loạn thần thế hệ thứ nhất gây ra, nhưng cũng có thể xuất hiện với một số thuốc mới hơn. Nó thường xảy ra trong vài tuần đầu điều trị nhưng có thể kéo dài nếu không được xử trí. Các thuốc chống loạn thần điển hình được biết là làm tăng nguy cơ các tác dụng phụ ảnh hưởng đến khả năng vận động và nói năng.

    Bao gồm các biểu hiện như: RUN RẨY, RUNG CƠ NHẸ, GIẬT CƠ, và CO THẮT CƠ. Chúng cũng có thể gây ra tình trạng cứng cơ nghiêm trọng, gọi là loạn trương lực cơ (dystonia). Có đến 40% bệnh nhân được điều trị bằng thuốc chống loạn thần điển hình có thể xuất hiện các triệu chứng tương tự như bệnh Parkinson – bao gồm run, cứng cơ, vận động chậm và rối loạn dáng đi. Phần lớn các triệu chứng này có thể được giải quyết bằng cách giảm liều, hoặc có thể được kiểm soát bằng các thuốc bổ trợ, chẳng hạn như thuốc điều trị Parkinson.
    Một trong những tác dụng phụ đặc trưng của thuốc chống loạn thần điển hình là tình trạng có các CỬ ĐỘNG GIẬT, KHÔNG TỰ CHỦ TAY CHÂN, LƯỠI VÀ MÔI mà không thể kiểm soát. Tình trạng này được gọi là rối loạn vận động muộn (tardive dyskinesia) và thường xuất hiện sau nhiều năm điều trị. Không giống như các rối loạn vận động khác do thuốc gây ra, rối loạn vận động muộn không cải thiện khi giảm liều hoặc ngừng thuốc.

    Các thuốc chống loạn thần không điển hình cũng có thể gây rối loạn vận động, nhưng các triệu chứng thường ít nghiêm trọng hơn. Tuy nhiên, chúng được biết là có thể gây ra các tác dụng phụ ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa, ví dụ như: TĂNG CÂN, TĂNG ĐƯỜNG HUYẾT VÀ MỠ MÁU, LOÃNG XƯƠNG. Do đó, cần thực hiện xét nghiệm máu định kỳ. Việc điều chỉnh chế độ ăn uống, tập thể dục, hay dùng thuốc bổ trợ có thể hỗ trợ giải quyết các tác dụng phụ này. Cả thuốc chống loạn thần điển hình và không điển hình đều có thể gây ra: buồn ngủ, tăng cân, mờ mắt, táo bón, mất ham muốn tình dục, khô miệng. Một số tác dụng phụ như mờ mắt, có thể tự cải thiện theo thời gian mà không cần can thiệp.

    Những tác dụng phụ khác thường được giải quyết bằng cách giảm liều, đổi sang loại thuốc khác, hoặc sử dụng một loại thuốc đặc hiệu để xử lý tác dụng phụ đó. Với vai trò là người chăm sóc, bạn có thể giúp giảm tác động tiêu cực của một số tác dụng phụ, đặc biệt là trong các trường hợp nhẹ hoặc vừa. Bạn có thể giúp người thân duy trì cân nặng ổn định bằng cách khuyến khích chế độ ăn lành mạnh, tránh thực phẩm nhiều calo và đồ ngọt, đồng thời tập thể dục. Tình trạng cứng cơ bằng có thể được cải thiện nhờ các bài tập kéo giãn hoặc bài tập isometric. Tập luyện và duy trì lối sống năng động cũng có thể có lợi cho nằm ngồi không yên.

    Tầm quan trọng của việc tuân thủ điều trị


    Việc dùng thuốc một cách đều đặn được gọi là tuân thủ điều trị. Mặc dù việc uống thuốc theo một lịch trình nhất định có thể nghe có vẻ đơn giản, nhưng việc tuân thủ điều trị thường là một trong những thách thức lớn nhất trong điều trị dài hạn bệnh tâm thần phân liệt. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 50–75% người mắc tâm thần phân liệt dùng thuốc không đều đặn, và hơn 40% ngưng thuốc hoàn toàn trong vòng 9 tháng đầu điều trị. Việc tuân thủ là đặc biệt quan trọng, bởi vì thuốc chống loạn thần CHỈ PHÁT HUY HIỆU QUẢ KHI ĐƯỢC DÙNG ĐỀU ĐẶN VÀ LIÊN TỤC. Nếu không được dùng đều đặn, nồng độ thuốc trong máu sẽ dao động, và hiệu quả điều trị sẽ suy giảm. Bạn có thể tìm hiểu thêm thông tin về việc tuân thủ điều trị và những gì bạn có thể làm để đảm bảo người thân của bạn duy trì việc dùng thuốc trong Chương 6 của cuốn cẩm nang này.

    Những mối lo ngại có thể gặp phải về việc dùng thuốc


    Những người sống chung với bệnh tâm thần phân liệt, cũng như gia đình của họ, thường có những lo lắng về các loại thuốc chống loạn thần được kê, không chỉ vì các tác dụng phụ mà họ còn lo ngại về nguy cơ gây nghiện. Tuy nhiên, thuốc chống loạn thần không gây cảm giác “phê” và không hình thành thói quen sử dụng. Ngoài ra, CHÚNG KHÔNG THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÀNH VI NGHIỆN. Một hiểu lầm phổ biến khác về thuốc chống loạn thần là chúng kiểm soát tâm trí người dùng, hoạt động như một “chiếc áo khoác hóa học” (chemical straightjacket).

    Việc sử dụng thuốc chống loạn thần đúng cách sẽ không khiến người bệnh mất đi ý chí tự do, hay “bị đánh gục” như nhiều người lo sợ. Do lo ngại về tác dụng phụ, người mắc tâm thần phân liệt có thể không sẵn sàng tuân thủ điều trị bằng thuốc. Hơn nữa, một số người tin rằng thuốc không thực sự hữu ích, và có thể muốn ngưng thuốc ngay sau khi thấy triệu chứng được cải thiện ban đầu. Việc NGỪNG THUỐC ĐỘT NGỘT NÊN ĐƯỢC TRÁNH TUYỆT ĐỐI, vì nó có thể dẫn đến sự tái phát các triệu chứng loạn thần. Cần giảm liều từ từ, và luôn luôn thảo luận với đội ngũ y tế điều trị cho người thân của bạn về lợi ích và tác dụng phụ của thuốc được kê. ĐIỀU QUAN TRỌNG LÀ CÂN NHẮC CÓ BAO NHIÊU TÁC DỤNG PHỤ CÓ THỂ CHẤP NHẬN ĐƯỢC, để đảm bảo người thân của bạn được bảo vệ khỏi tái phát, mà không làm tổn hại đến sự tuân thủ điều trị.

    Tác dụng của tập thể dục


    Ai cũng biết rằng tập thể dục mang lại vô số lợi ích tích cực cho tim, phổi, cơ và khớp, cũng như quá trình trao đổi chất và hệ miễn dịch. Nó cũng làm tăng sản xuất các “chất hạnh phúc” trong não, từ đó cải thiện tâm trạng và cảm giác khỏe mạnh. Tập thể dục có nhiều TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC đến sức khỏe thể chất của người mắc tâm thần phân liệt: nó giúp giảm tăng cân, giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch và đái tháo đường, nó cũng giúp giảm nguy cơ loãng xương, một tác dụng phụ tiềm tàng của thuốc chống loạn thần. Bên cạnh việc cải thiện thể lực nói chung, tập thể dục còn giúp giảm huyết áp. Ngoài ra, việc vận động thể chất đầy đủ, đặc biệt là ngoài trời, cũng giúp cải thiện giấc ngủ. Điều này rất quan trọng, vì tâm thần phân liệt thường đi kèm với các vấn đề về giấc ngủ.

    Nhưng điều quan trọng hơn cả là tập thể dục có lợi ích to lớn đối với sức khỏe tâm lý của người mắc tâm thần phân liệt. Nhiều nghiên cứu cho thấy tập thể dục giúp cải thiện đáng kể các triệu chứng âm tính, đặc biệt là thu mình khỏi xã hội, uể oải, thờ ơ, cũng như các triệu chứng nhận thức như suy giảm trí nhớ và kỹ năng tư duy. Việc tập thể dục nhiều hơn giúp giảm căng thẳng, cải thiện tâm trạng, động lực và lòng tự trọng. Nó cũng giảm lo âu và trầm cảm, đồng thời tăng mức năng lượng. Hơn nữa, đây còn là một cách tuyệt vời để giao tiếp xã hội, đối với cả bạn và người thân của bạn. Có rất nhiều hình thức tập luyện mà người thân của bạn có thể thực hiện, bao gồm chạy bộ, đi bộ, bơi lội, tập tạ, v.v… Mỗi loại hình có lợi ích khác nhau: ví dụ, bơi giúp tăng sức bền, trong khi tập tạ tốt cho xương.

    Các môn thể thao giúp tăng cường sức bền tim phổi, chẳng hạn như võ thuật, yoga hoặc khiêu vũ, cũng đã được chứng minh là có tác dụng cải thiện triệu chứng và bệnh lý đi kèm của tâm thần phân liệt. Thời gian tập luyện được khuyến nghị đối với người mắc bệnh tâm thần nặng là 90–150 phút mỗi tuần với cường độ vừa đến mạnh. Cần lưu ý chọn những hình thức vận động mang lại niềm vui cho người thân của bạn, vì họ sẽ có xu hướng duy trì thói quen đó lâu hơn. Đồng thời, cần có một kế hoạch luyện tập cá nhân hóa, phù hợp với nhu cầu của người thân bạn, và được đánh giá lại thường xuyên. Trong tất cả các lựa chọn điều trị được đề cập trong chương này, tập thể dục là phương pháp mà bạn có thể tham gia nhiều nhất. Nhiều bài tập có thể thực hiện tại nhà, và bạn có thể đóng góp rất nhiều trong việc tìm ra chế độ tập luyện phù hợp nhất cho người thân, cũng như hỗ trợ họ duy trì động lực.


    Liệu pháp tâm lý

    Mục tiêu của liệu pháp tâm lý, hay các liệu pháp “trò chuyện” nói chung, là giúp người mắc tâm thần phân liệt HIỂU RÕ CÁC TRIỆU CHỨNG CỦA HỌ VÀ SỐNG MỘT CUỘC SỐNG ÍT ĐAU KHỔ HƠN. Các phương pháp điều trị bằng tâm lý đối với thờ ơ có thể hỗ trợ người bệnh đối phó với các triệu chứng dương tính, như ảo giác hoặc hoang tưởng. Bên cạnh đó, chúng cũng có thể làm giảm một số triệu chứng âm tính, chẳng hạn như mất hứng thú (anhedonia) hoặc thờ ơ (apathy). Các phương pháp điều trị tâm lý sẽ hiệu quả nhất khi được kết hợp với thuốc chống loạn thần.

    Liệu pháp hành vi nhận thức (CBT)


    CBT, hay liệu pháp hành vi nhận thức, là hình thức trị liệu “trò chuyện” được khuyến nghị nhiều nhất trong điều trị tâm thần phân liệt. Dựa trên giả thuyết rằng cảm xúc của chúng ta bắt nguồn từ suy nghĩ, CBT là một phương pháp tập trung vào giải quyết vấn đề, nhằm dạy cho người mắc tâm thần phân liệt CÁCH ĐỐI PHÓ VỚI CÁC TÌNH HUỐNG KHÓ KHĂN. Bằng cách giúp họ nhận diện và thay đổi những suy nghĩ tiêu cực và hành vi không phù hợp, CBT giúp người bệnh đối phó với các triệu chứng như hoang tưởng, nghe thấy tiếng nói (ảo thanh), cũng như lo âu xã hội và trầm cảm.

    CBT hoạt động bằng cách dạy cho người bệnh cách cải tổ các niềm tin hoặc hành vi có thể gây ra những cảm xúc tiêu cực. Liệu pháp này gồm hai thành phần chính: THÀNH PHẦN NHẬN THỨC (cognitive component) giúp người bệnh điều chỉnh quá trình suy nghĩ khi đánh giá một tình huống; và THÀNH PHẦN HÀNH VI (behavioral component): giúp người bệnh điều chỉnh cách phản ứng của họ với tình huống đó.

    Các buổi trị liệu CBT thường kéo dài 50 PHÚT mỗi tuần, trong khoảng thời gian 3 ĐẾN 6 THÁNG, đôi khi có thể kéo dài đến 12 THÁNG hoặc hơn. Trong mỗi buổi trị liệu, người thân của bạn sẽ học được cách suy nghĩ, cảm xúc và hành vi ảnh hưởng lẫn nhau dưới sự hướng dẫn của một nhà trị liệu. Để đạt được mục tiêu loại bỏ các cảm xúc không mong muốn, nhà trị liệu sẽ dạy các chiến lược để thay đổi suy nghĩ tiêu cực và cải thiện cách phản ứng với chúng. Ngoài ra, người bệnh sẽ học cách đánh giá xem các suy nghĩ và nhận thức của mình có dựa trên thực tế hay không, cũng như cách kiểm soát các triệu chứng đi kèm.

    CBT giúp người bệnh hiểu được cơ chế ra quyết định của họ bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ về bản thân và thế giới xung quanh như thế nào. Vì khả năng tự nhận thức như vậy thường không rõ ràng ở người mắc tâm thần phân liệt, CBT có thể giúp họ kiểm soát tốt hơn cảm xúc và hành vi của mình. Một thành phần quan trọng khác của CBT là giáo dục tâm lý (psychoeducation). Trong các buổi can thiệp tâm lý này, người thân của bạn sẽ được cung cấp thông tin về bệnh và phương pháp điều trị. Mục tiêu là thúc đẩy sự hiểu biết về bệnh và khả năng tự chủ trong việc đối phó với nó. Điều này được thực hiện bằng những hướng dẫn đầy thấu cảm thông qua cung cấp thông tin và cùng nhau xem xét vấn đề.

    Người thân của bạn có thể học cách kiểm soát cuộc sống của chính mình, chung sống với căn bệnh. Để có thể đối phó với bệnh một cách tốt nhất, họ cần phát triển một sự hiểu biết cơ bản về nguyên nhân gây bệnh cũng như các phương pháp điều trị hiện có. Họ cũng cần học cách phát hiện sớm các dấu hiệu tái phát và cách ứng phó kịp thời. Bằng cách kết hợp giữa các buổi trị liệu CBT và việc dùng thuốc, người mắc tâm thần phân liệt cuối cùng có thể nhận diện các yếu tố kích hoạt dẫn đến các giai đoạn loạn thần, và học cách giảm thiểu hoặc ngăn chặn chúng. 

     “Kể từ khi con gái tôi bắt đầu trị liệu tâm lý, tôi cảm thấy rằng con bé không còn vật lộn quá nhiều với các triệu chứng của mình nữa. Một mặt, trị liệu giúp con bé có được lời giải thích cho những tiếng nói mà con nghe thấy; mặt khác, con cũng đang học cách đối mặt với chúng tốt hơn và tạo khoảng cách với chúng. Thật nhẹ nhõm khi biết rằng ngoài tôi ra, còn có một chuyên gia – một người mà con bé có thể thường xuyên chia sẻ vấn đề của mình. Một người có thể chất vấn niềm tin của con bé mà không làm nảy sinh mâu thuẫn liên tục. Con bé cũng đang học cách cân nhắc những lời giải thích thay thế cho các niềm tin của mình. Tôi nghĩ con đang học cách không chỉ hiểu mà còn kiểm soát cảm xúc tốt hơn. Nhờ vào kế hoạch xử lý khủng hoảng của mình, con bé đã có sự chuẩn bị tốt cho những đợt khủng hoảng tiếp theo và biết sớm mình cần làm gì.”

    – Bà B. K., mẹ của một cô gái trẻ mắc bệnh tâm thần phân liệt

    Trị liệu gia đình

    Có rất nhiều người đang sống chung với bệnh tâm thần phân liệt. Mặc dù phần lớn các thành viên trong gia đình thường sẵn lòng giúp đỡ, nhưng việc chăm sóc một người mắc bệnh tâm thần phân liệt có thể trở thành gánh nặng đối với bất kỳ gia đình nào. Trị liệu gia đình là một phương pháp nhằm hỗ trợ các thành viên trong gia đình của người mắc bệnh tâm thần phân liệt đối phó tốt hơn với căn bệnh này. Mục tiêu của trị liệu là GIÚP TẤT CẢ CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH CÙNG NHAU HỢP TÁC để cải thiện tình trạng cho cả người bệnh lẫn toàn bộ gia đình. Trị liệu gia đình bao gồm một chuỗi các buổi gặp mặt kéo dài khoảng 6 THÁNG. Các buổi gặp có cấu trúc rõ ràng và được hướng dẫn chuyên môn. Trong những buổi gặp này, bạn có thể thảo luận thông tin về bệnh tâm thần phân liệt, tìm hiểu cách bạn có thể hỗ trợ người thân của mình, và đưa ra giải pháp cho các vấn đề thực tiễn phát sinh do triệu chứng của bệnh.
    Lợi ích chính của trị liệu gia đình là nó tạo ra một nền tảng giúp hàn gắn các mối quan hệ trong gia đình có thể đã bị ảnh hưởng do căn bệnh. Các buổi trị liệu cũng là cơ hội để cùng nhau tìm hiểu thông tin về bệnh, phối hợp vượt qua những thử thách, cũng như nâng cao khả năng diễn đạt và đáp ứng các nhu cầu của từng thành viên. Hình thức giáo dục tâm lý này đã được chứng minh là rất hiệu quả trong trị liệu gia đình. Hơn nữa, các can thiệp trị liệu gia đình dành cho bệnh loạn thần đã được chứng minh là giúp giảm tỷ lệ tái phát, rút ngắn thời gian nằm viện, giảm mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng loạn thần, đồng thời tăng cường khả năng hoạt động và hòa nhập của người bệnh.

     “Ban đầu chúng tôi khá hoài nghi về trị liệu gia đình… Nhưng càng ngồi lại cùng nhau với nhà trị liệu, chúng tôi càng tận dụng được những buổi đó để thảo luận về sự gắn bó của chúng tôi, cảm xúc của từng người, và nhu cầu của chúng tôi với tư cách một gia đình. Và tất nhiên, chúng tôi cũng nói về bệnh của con trai mình. Chúng tôi đã học được rất nhiều về cách nói chuyện phù hợp về bệnh trong gia đình, cũng như điều con trai muốn chúng tôi làm nếu có đợt tái phát.”

    – Bà F. M., mẹ của một chàng trai trẻ sống với bệnh tâm thần phân liệt

    Đào tạo kỹ năng xã hội


    Đào tạo kỹ năng xã hội sử dụng liệu pháp hành vi để giúp người mắc bệnh tâm thần phân liệt HỌC CÁCH GIAO TIẾP CẢM XÚC TỐT HƠN. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những người gặp khó khăn trong việc bộc lộ cảm xúc hoặc có xu hướng giảm tương tác xã hội. Loại hình đào tạo này tập trung vào nhiều khía cạnh trong mối quan hệ giữa người bệnh với người khác — từ việc sử dụng ánh mắt và cử chỉ, cho đến cách xử lý cảm xúc tiêu cực. Nhờ vậy, người bệnh có thể điều hướng các mối quan hệ của mình tốt hơn, giảm bớt sự khó chịu và căng thẳng khi tiếp xúc với bạn bè, thành viên trong gia đình hoặc đồng nghiệp. Bên cạnh việc cải thiện kỹ năng xã hội, các chương trình này còn NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG cho người mắc bệnh tâm thần phân liệt, đồng thời giúp giảm tỷ lệ tái phát.

    Do chứng loạn thần, con trai chúng tôi ngày càng trở nên dè dặt và thiếu tự tin — cả trong công việc lẫn với bạn bè cũ. Trong nhóm đào tạo kỹ năng xã hội này, cháu không chỉ có thêm cơ hội giao tiếp với các bạn đồng trang lứa, mà còn được thực hành cách bắt chuyện, cách diễn đạt nhu cầu của bản thân một cách phù hợp, và quan trọng nhất với cháu là cách nói ‘không’ khi mọi thứ trở nên quá tải.” 

    – Ông P. F., cha của một nam thanh niên sống chung với bệnh tâm thần phân liệt

    Sốc điện


    Mặc dù đã xuất hiện từ lâu, liệu pháp sốc điện (Electroconvulsive Therapy – ECT) vẫn bị hiểu lầm. Phương pháp này thường bị coi là “biện pháp cuối cùng” và gây ra nhiều đau đớn cho người điều trị. Nhận định sai lầm này một phần xuất phát từ cách phương pháp được mô tả không chính xác trong các bộ phim và chương trình truyền hình. Trên thực tế, ECT là một PHƯƠNG PHÁP AN TOÀN VÀ HIỆU QUẢ, trong đó một dòng điện nhỏ được truyền vào não. Việc này được thực hiện bằng cách đặt các điện cực lên da đầu và truyền dòng điện trong thời gian rất ngắn, khi người bệnh đang được gây mê toàn thân. Dòng điện này gây ra các cơn động kinh nhẹ và có kiểm soát trong não bộ. Một đợt điều trị ECT thường bao gồm 2–3 buổi mỗi tuần, kéo dài trong vài tuần. Theo thời gian, ECT GIÚP CẢI THIỆN TÂM TRẠNG VÀ SUY NGHĨ CỦA NGƯỜI BỆNH. Việc quyết định sử dụng liệu pháp này luôn dựa trên các cân nhắc đạo đức và phải có sự đồng thuận bằng văn bản của bệnh nhân.
    ECT vốn được sử dụng chủ yếu để điều trị trầm cảm nặng hoặc rối loạn lưỡng cực, nhưng đôi khi cũng được chỉ định để điều trị các triệu chứng của tâm thần phân liệt như hoang tưởng, ảo giác hoặc tư duy vô tổ chức. ECT thường được áp dụng trong những trường hợp nghiêm trọng, khi thuốc không còn hiệu quả, hoặc khi việc điều trị tâm thần phân liệt bị cản trở bởi trầm cảm nặng. Trong những tình huống như vậy, ECT thường là biện pháp can thiệp “cứu sống” cho nhiều bệnh nhân. 


    Liệu pháp nghệ thuật


    Liệu pháp nghệ thuật là một dạng trị liệu tâm lý (psychotherapy) nhằm hỗ trợ những người đang trải qua khủng hoảng tinh thần, sử dụng nghệ thuật làm phương tiện chính để biểu đạt và giao tiếp. Liệu pháp này bao gồm nhiều hình thức khác nhau như âm nhạc, mỹ thuật (vẽ tranh, điêu khắc…), chuyển động và múa, kịch và sân khấu, viết lách. Thông thường, nhiều phương pháp nghệ thuật có thể được kết hợp trong một quá trình trị liệu. Liệu pháp nghệ thuật được thiết kế để TẠO ĐIỀU KIỆN CHO VIỆC THỂ HIỆN BẢN THÂN MỘT CÁCH SÁNG TẠO. Làm việc cùng nhà trị liệu nghệ thuật, dù theo hình thức cá nhân hay nhóm nhỏ, có thể mang lại một trải nghiệm mới mẻ cho người sống chung với tâm thần phân liệt, đồng thời hỗ trợ họ phát triển những cách tiếp cận khác để kết nối với người khác. Vì người mắc tâm thần phân liệt thường có xu hướng thu mình khỏi xã hội, liệu pháp nghệ thuật giúp họ dễ dàng tham gia hơn khi việc giao tiếp bằng lời nói trực tiếp trở nên khó khăn.


    Liệu pháp nghệ thuật có thể giúp người bệnh thể hiện cảm xúc của mình, đặc biệt trong những trường hợp họ cảm thấy quá tải khi phải nói ra hoặc cảm thấy mất kết nối với cảm xúc của bản thân. Liệu pháp này cũng có thể giúp họ đối diện với những sự kiện sang chấn trong quá khứ – những yếu tố có thể góp phần khởi phát các trải nghiệm loạn thần. Mục tiêu của liệu pháp nghệ thuật là nâng cao mức độ sáng tạo, khả năng biểu đạt cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, hiểu biết sâu sắc, và khả năng thiết lập mối quan hệ với chính mình cũng như với người khác.
    Liệu pháp nghệ thuật trao quyền cho người bệnh diễn đạt và thể hiện những trải nghiệm của họ thông qua nghệ thuật, bao gồm cả những trải nghiệm cảm xúc, nhận thức và loạn thần, và xử lý chúng theo nhịp độ phù hợp với cá nhân. Mặc dù vẫn chưa rõ cơ chế hoạt động chính xác của liệu pháp nghệ thuật, có những nghiên cứu cho thấy nó giúp người mắc tâm thần phân liệt kiểm soát chứng loạn thần, đồng thời giúp họ hiểu rõ hơn về các triệu chứng như ảo giác hay hoang tưởng. Bên cạnh đó, có bằng chứng cho thấy liệu pháp nghệ thuật hỗ trợ quá trình phục hồi, đặc biệt với những người đang trải qua các triệu chứng âm tính. Vì vậy, liệu pháp nghệ thuật được cả nhà trị liệu lẫn bệnh nhân đánh giá là một phương pháp can thiệp hữu ích và mang nhiều ý nghĩa.


    Thú cưng và liệu pháp hỗ trợ bằng động vật

    Thú cưng từ lâu đã được biết đến là mang lại tác động tích cực đến cuộc sống con người. Chúng có thể giúp xoa dịu nỗi đau khi ta phải đối mặt với bệnh lý mạn tính, cô đơn hoặc trầm cảm, đồng thời mang lại cho ta một cảm giác có mục đích sống để tập trung vào. Nhờ những lợi ích đó, động vật đã được đưa vào trị liệu trong suốt nhiều thế kỷ.
    Liệu pháp hỗ trợ bằng động vật là hình thức trị liệu có sự tham gia của động vật như một phần trong kế hoạch điều trị – với vai trò là nguồn hỗ trợ cảm xúc hoặc là động vật phục vụ (service animals) được huấn luyện để hỗ trợ người bệnh trong các hoạt động hàng ngày. Chó là loài được sử dụng phổ biến nhất, tuy nhiên các loài động vật khác như ngựa, mèo, chim và một số loài khác cũng có thể được sử dụng.
    Tác động tích cực của thú cưng cũng đã được nghiên cứu ở người mắc tâm thần phân liệt. Một nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của chó trong các buổi trị liệu giúp cải thiện triệu chứng mất hứng thú (anhedonia), động lực, và cách người bệnh sử dụng thời gian rảnh. Ngoài ra, khả năng giao tiếp xã hội và cái nhìn của họ về bản thân cũng được cải thiện. Những nghiên cứu khác còn ghi nhận sự cải thiện ở cả ba nhóm triệu chứng của tâm thần phân liệt: triệu chứng dương tính, âm tính và nhận thức.

    VIỆC SỞ HỮU MỘT CON THÚ CƯNG MANG LẠI HÀNG LOẠT LỢI ÍCH cho người có vấn đề sức khỏe tâm thần mạn tính. Với nhiều người, thú cưng được xem quan trọng như một thành viên trong gia đình, vì chúng có thể tạo ra mối quan hệ thân mật và an toàn. Thú cưng cũng giúp người bệnh phân tán sự chú ý khỏi các triệu chứng khó chịu hoặc trải nghiệm tiêu cực, đồng thời khuyến khích họ vận động thể chất nhiều hơn. Trong những thời điểm mà các mối quan hệ với bạn bè hay gia đình trở nên giới hạn hoặc căng thẳng, thú cưng mang lại cảm giác an ủi và đồng hành. Chúng còn giúp thiết lập những thói quen hàng ngày ổn định, đóng vai trò như nguồn hỗ trợ cảm xúc và xã hội.
    Khi chăm sóc một sinh vật khác, người bệnh sẽ cảm nhận được cảm giác kiểm soát mà họ thường thiếu trong các mối quan hệ khác. Hơn nữa, thú cưng có thể giúp giảm bớt sự kỳ thị liên quan đến bệnh tâm thần, mang lại cảm giác được chấp nhận cho người nuôi. Nhờ vậy, sở hữu thú cưng hoặc tham gia liệu pháp hỗ trợ bằng động vật có thể góp phần quan trọng vào quá trình phục hồi tâm lý xã hội và cải thiện chất lượng cuộc sống của người mắc tâm thần phân liệt.


    Cộng đồng trị liệu

    Cộng đồng trị liệu là những nhóm nhỏ có tính gắn kết, nơi người bệnh có thể rèn luyện các kỹ năng sống cơ bản khi tương tác với người khác, đồng thời nhận được sự hỗ trợ và cũng hỗ trợ lẫn nhau. Hình thức này ban đầu được phát triển để phục hồi cho những binh sĩ bị sang chấn tâm lý, nhưng sau đó đã được áp dụng hiệu quả trong điều trị các rối loạn tâm thần nặng như tâm thần phân liệt.
    Cộng đồng trị liệu hoạt động dựa trên nguyên tắc trách nhiệm, hợp tác và giao tiếp. Người tham gia có thể sống tại cộng đồng như một cư dân, hoặc tham gia các cuộc họp nhóm nhiều lần trong tuần. Mục tiêu của cộng đồng trị liệu là xây dựng một môi trường giống như gia đình – ít căng thẳng, ổn định và an toàn, nơi người bệnh nhận được sự hỗ trợ liên tục và có cơ hội cải thiện mối quan hệ xã hội cũng như cảm giác về mục đích sống. Ở đây, bản thân cộng đồng chính là công cụ trị liệu.


    Kỹ thuật thư giãn cơ bắp từng bước


    Thư giãn cơ bắp từng bước (PMR) là một kỹ thuật giúp thư giãn sâu, bằng cách lần lượt siết chặt và thả lỏng từng nhóm cơ kết hợp với nhịp thở đều đặn. PMR đã được chứng minh là hiệu quả trong việc GIẢM CĂNG THẲNG VÀ LO ÂU, cải thiện chứng mất ngủ, và giảm một số loại đau mạn tính. Đối với người mắc tâm thần phân liệt, PMR cũng có thể giúp giảm căng thẳng và lo âu, từ đó cải thiện cảm giác thoải mái và hạnh phúc nội sinh.


    Trò chơi điện tử


    Trò chơi điện tử là một phương pháp tương đối mới trong điều trị tâm thần phân liệt. Mặc dù thường bị cho là gây lười suy nghĩ hoặc lối sống ít vận động, thực tế cho thấy trò chơi điện tử có thể giúp người chơi PHÁT TRIỂN NHIỀU KỸ NĂNG NHẬN THỨC, và TĂNG KHẢ NĂNG THÍCH NGHI CỦA NÃO BỘ (neuroplasticity). Các trò chơi điện tử – đặc biệt là những trò chơi liên quan đến chuyển động và rèn luyện thể chất (exergames) – đã cho thấy giúp cải thiện nhận thức và động lực ở người trẻ mắc tâm thần phân liệt. Trò chơi điện tử cũng cải thiện tâm trạng, cảm xúc và kỹ năng xã hội, đồng thời là một lựa chọn hấp dẫn thay thế cho các hoạt động thể chất thông thường. Ngoài ra, nghiên cứu gợi ý rằng trò chơi điện tử có thể hỗ trợ người bệnh học cách KIỂM SOÁT ẢO GIÁC LỜI NÓI (verbal hallucinations) tốt hơn.


    Thăm khám từ xa (Telehealth)

    Trong thời kỳ đại dịch, việc gặp bác sĩ trực tiếp trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, điều này lại thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các ứng dụng trò chuyện qua video, giúp mọi người có thể gặp gỡ và trao đổi với nhau qua điện thoại thông minh hoặc máy tính. Ngoài việc duy trì liên lạc xã hội và hỗ trợ học tập trực tuyến cho trẻ em, công nghệ này còn tạo điều kiện cho người bệnh nhẹ có thể trao đổi với bác sĩ từ xa, nhận được sự chăm sóc y tế cần thiết mà không phải tiếp xúc với môi trường dễ lây nhiễm.
    Mặc dù vẫn còn một số hạn chế (chẳng hạn như chất lượng chẩn đoán và hiệu quả chăm sóc y tế chưa cao), thăm khám từ xa đã mở ra một bước chuyển mình trong mối quan hệ bác sĩ – bệnh nhân. Sự chuyển đổi số này không chỉ giúp đảm bảo chăm sóc y tế trong khủng hoảng, mà còn hứa hẹn thay đổi cách chúng ta giao tiếp với bác sĩ trong tương lai.


    Tìm phương pháp điều trị phù hợp


    Đối với người mắc bệnh tâm thần phân liệt, việc tìm ra phương pháp điều trị phù hợp thường là một hành trình thực sự. Một phần quan trọng của hành trình này là KHÁM PHÁ VÀ NHẬN DIỆN NHỮNG PHƯƠNG PHÁP phù hợp nhất với các triệu chứng cụ thể của người thân của bạn. Điều quan trọng là cần kiên nhẫn trong suốt quá trình này.
    Mặc dù có mong muốn mạnh mẽ là các triệu chứng sẽ biến mất, nhưng mỗi người đều có con đường riêng để tìm ra những phương pháp điều trị phù hợp với bản thân. Dù quá trình này có thể khiến bạn cảm thấy quá tải, vẫn có nhiều biện pháp khác nhau giúp làm cho việc điều trị trở nên dễ dàng hơn. Điều quan trọng nhất là CHIA SẺ TRẢI NGHIỆM CỦA BẠN với nhóm điều trị. Họ cần hiểu rõ về các triệu chứng để có thể xây dựng một kế hoạch điều trị phù hợp và hiệu quả cho người thân bạn.

    Tham khảo

    1. Altamura AC, Fagiolini A, Galderisi S, Rocca P, Rossi A. Integrated treatment of schizophrenia. Journal of Psychopathology 2015; 21:168-193
    2. Uçok A, Gaebel W. Side effects of atypical antipsychotics: a brief overview. World psychiatry: official journal of the World Psychiatric. Association (WPA) 2008. 7(1), 58–62. https:// doi.org/10.1002/j.2051-5545.2008.tb00154.x
    3. Caponnetto P, Polosa R, Robson D, Bauld L. Tobacco smoking, related harm and motivation to quit smoking in people with schizophrenia spectrum disorders. Health psychology research vol. 8,1 9042. 27 May. 2020, doi:10.4081/hpr.2020.9042
    4. Haddad PM, Brain C, Scott J. Nonadherence with antipsychotic medication in schizophrenia: challenges and management strategies. Patient Relat Outcome Meas. 2014;5:43-62. Published 2014 Jun 23. doi:10.2147/PROM.S42735
    5. Falkai P, Malchow B, Wobrock T. et al. The effect of aerobic exercise on cortical rchitecture in patients with chronic schizophrenia: a randomized controlled MRI study. Eur Arch Psychiatry Clin Neurosci 263, 469–473 (2013). https://doi.org/10.1007/s00406-012-0383-y
    6. Farholm A, Sørensen M. Motivation for physical activity and exercise in severe mental illness: A systematic review of cross-sectional studies. Int J Ment Health Nurs. 2016 Apr;25(2):116-26. doi: 10.1111/inm.12217. Epub 2016 Feb 1. PMID: 26833453.
    7. Jingxuan H. Art Therapy: A Complementary Treatment for Mental Disorders. Front. Psychol. 12 August 2021. https:// doi.org/10.3389/fpsyg.2021.686005 
    8. Vancampfort D, De Hert M, Knapen J, Maurissen K, Raepsaet J, Deckx S, Remans S, Probst M. Effects of progressive muscle relaxation on state anxiety and subjective well-being in people with schizophrenia: a randomized controlled trial. Clin Rehabil. 2011 Jun;25(6):56775. doi: 10.1177/0269215510395633. Epub 2011 Mar 14. PMID: 21402653.
    9. Nathans-Barel I, Feldman P, Berger B, Modai I, Silver H. Animal-assisted therapy ameliorates anhedonia in schizophrenia patients. A controlled pilot study. Psychother Psychosom. 2005;74(1):31-5. doi: 10.1159/000082024. PMID: 15627854.
    10. Hosak L. Electroconvulsive Therapy in Schizophrenia. World J Psychiatry Ment Health Res. 2018; 2(1): 1008
    11. Almerie MQ, Okba Al Marhi M, Jawoosh M, Alsabbagh M, Matar HE, Maayan N, Bergman H. Social skills programmes for schizophrenia. Cochrane Database Syst Rev. 2015 Jun 9;2015(6):CD009006. doi: 10.1002/14651858.CD009006.pub2. PMID: 26059249; PMCID: PMC7033904.
    12. Camacho-Gomez M, Castellvi P. Effectiveness of Family Intervention for Preventing Relapse in First-Episode Psychosis Until 24 Months of Follow-up: A Systematic Review With Meta-analysis of Randomized Controlled Trials. Schizophr Bull. 2020 Jan 4;46(1):98-109. doi: 10.1093/schbul/sbz038. PMID: 31050757; PMCID: PMC6942164.
    13. Reeves JJ, Ayers JW, Longhurst CA. Telehealth in the COVID-19 Era: A Balancing Act to Avoid Harm. J Med Internet Res. 2021 Feb 1;23(2):e24785.
    Chia sẻ
    Login to Unlock

    TAM THẦN PHÂN LIỆT: LẦM TƯỞNG VÀ SỰ…

    Bạn có thể đã có một số định kiến về bệnh tâm thần phân liệt, nhưng bạn có biết những lầm tưởng và sự thật không? Khám phá những lầm tưởng phổ biến về bệnh tâm

    more…
    Login to Unlock

    NGỦ KHỎE MẠNH

    Trong quá trình hoạt động của não khi chúng ta tỉnh táo, các chất thải độc hại tiềm ẩn sẽ được tạo ra và tích tụ trong não.1 Để não hoạt động khỏe mạnh và sức k

    more…
    Hiển thị 0 kết quả.
    Seraphinite AcceleratorOptimized by Seraphinite Accelerator
    Turns on site high speed to be attractive for people and search engines.